Pages

Wednesday, October 24, 2018

Văn hóa dân tộc Tây Bắc - Phần 1


Vùng Tây Bắc là vùng miền núi phía tây của miền bắc Việt Nam, có chung đường biên giới với Lào và Trung Quốc. Đây là một trong 3 tiểu vùng của Bắc Bộ Việt Nam, bao gồm các tỉnh: Mường Lay, Lai Châu, Lào Cai, Điện Biên, Sơn La, Yên Báí

Địa hình Tây Bắc hiểm trở, có nhiều khối núi và dãy núi cao chạy theo hướng Tây BắcĐông Nam, trong đó có dãy Hoàng Liên Sơn dài đến 180 km, rộng 30 km, cao từ 1500m trở lên, các đỉnh cao nhất như Phanxipăng 3142m, Yam Phình 3096m, Pu Luông 2.983m. Dãy Hoàng Liên Sơn, được người Thái gọi là "sừng trời" (Khau phạ), chính là bức tường thành phía đông và vùng Tây Bắc.


Vùng Tây Bắc có hai con sông lớn, đó là sông Đà (tên Thái là Nặm Tè) và sông Thao (tức sông Hồng), thượng nguồn của sông Mã cũng nằm trên vùng đất Tây Bắc, phía Tây tỉnh Sơn La. Các con sông này không chỉ là cơ sở cho sự định cư của của các dân tộc nơi đây cũng như nền nông nghiệp trong vùng mà còn là nguồn cảm hứng cho những câu hát và truyền thuyết của các tộc người Thái, Mường...

Sông Đà

Sông Mã




Tuy cùng nằm trong vòng đai nhiệt đới gió mùa, nhưng do ở một độ cao từ 800-3000m nên khí hậu Tây Bắc ngả sang á nhiệt đới và nhiều nơi cao như Sìn Hồ có cả khí hậu ôn đới. Mặt khác, do địa hình lại chia cắt bởi các dãy núi, các dòng sông, khe suối, tạo nên những thung lũng, có nơi lớn thành lòng chảo như vùng Nghĩa Lộ, Điện Biên nên Tây Bắc còn là nơi có nhiều tiểu vùng khí hậu. Trong lúc đó ở thung lũng Mường La, người ta mặc áo ngắn tay giữa mùa đông thì ở Mộc Châu phải mặc áo bông dày mà không khỏi rét. Nhưng chính vì vậy mà thiên nhiên Tây Bắc rất đa dạng, thổ nhưỡng nhiều loại hình. Chính điều này cũng góp phần làm nên những nét đa dạng trong văn hóa của các dân tộc vùng Tây Bắc.

  
Đc đim kinh tế - xã hi và dân cư:
Hoạt động kinh tế của Tây Bắc chủ yếu là nông nghiệp mà cụ thể là trồng lúa nước ở vùng thung lũng, ruộng bậc thang ven sườn núi, các loại cây như ngô, sắn, đậu tương ở nương, rẫy,…
Người Thái có nhiều kinh nghiệm đắp phai, đào mương, dựng con, bắc máng lấy nước làm ruộng. Lúa nước là nguồn lương thực chính, đặc biệt là lúa nếp. Người Thái cũng làm nương để trồng lúa, hoa màu và nhiều thứ cây khác. Từng gia đình chăn nuôi gia súc, gia cầm, đan lát, dệt vải, một số nơi làm đồ gốm... Sản phẩm nổi tiếng của người Thái là vải thổ cẩm, với những hoa văn độc đáo, màu sắc rực rỡ, bền đẹp.

Đặc điểm cư trú nổi bật của đồng bào Thái là dọc các thung lũng vùng thấp, nơi có nhiều sông suối ao hồ, chính vì thế mà các nhà dân tộc học xếp dân tộc Thái là những cư dân đại diện cho nền văn minh thung lũng (Valley culture). Trên thực tế, đồng bào Thái ở vùng nào cũng tỏ ra vừa giỏi chài lưới ngoài sông ngoài suối, lại rất thạo việc đánh bắt trong ruộng trong đồng. Nhờ vậy, bữa ăn hàng ngày của bà con được tăng cường nguồn dinh dưỡng một cách đáng kể, do chính các hoạt động sông nước đem lại.

Nguồn sống chính của đồng bào H’Mông là làm nương rẫy du canh, trồng ngô, trồng lúa ở một vài nơi có nương ruộng bậc thang. Cây lương thực chính là ngô và lúa nương, lúa mạch. Ngoài ra còn trồng lanh để lấy sợi dệt vải và trồng cây dược liệu. Chăn nuôi của gia đình người Mông có trâu, bò, ngựa, chó, gà. Xưa kia người Mông quan niệm: Chăn nuôi là việc của phụ nữ, kiếm thịt trong rừng là việc của đàn ông.



m thc:



Tây Bắc là cái nôi của các dân tộc thiểu số như Thái, Tày, Mường, Dao, Mông, Lô Lô, Hà Nhì... Một trong những sắc thái văn hoá dân tộc độc đáo của họ là những món ăn truyền thống nổi tiếng chỉ có ở vùng này. Người dân Tây Bắc thường thưởng thức những món ăn truyền thống của mình trong không gian và không khí cộng đồng như tại các lễ hội, tại các chợ và đặc biệt là vào ngày Tết nhân dịp năm mới xuân về. 


Phần lớn khẩu vị của người tây bắc là thích những gì đậm đà vì vậy phần lớn các món ăn nổi bật của người vùng Tây Bắc đểu mang lại cho người thưởng thức những ấn tượng rất khó quên.

Món ăn đầu tiên phải nhắc đến là đặc sản chế biến từ trâu là món canh da trâu:
 Da trâu sau khi giết được lột và thui sạch lông rồi gác trên gác bếp cho khô. Để chế biến món canh nấu với bon, người Thái lấy số da khô vừa đủ đốt cho cháy sùi ra, cạo sạch đến khi trông miếng da có màu vàng ươm, mùi thơm phức. Sau khi nướng giòn tan, miếng da được bẻ thành từng miếng nhỏ bỏ vào nồi bon đun nhỏ lửa cho đến nhừ. Trước khi bắc xuống người ta thêm gia vị vào nồi canh bon này. Nồi canh bon đúng nghĩa là phải có đủ 30 loại gia vị mang hương vị núi rừng Tây Bắc trong đó gồm những gia vị dễ nhận biết như sả, cà đắng, hạt tiêu, mắc khèn. Món ăn bổ dưỡng nhưng đậm đà hương vị núi rừng này để lại cảm giác khó quên cho nhiều thực khách.

       Những tấm da trâu- phần không thể thiếu trong việc chế biến món canh da trâu.

RƯỢU SÂU CHÍT:

Đến với Tây Bắc sẽ là thiếu xót nếu như không thưởng thức một loại rượu ngon nổi tiếng mà người dân địa phương gọi nôm na là rượu sâu chít.
           
Đây là loại rượu phổ biến nhất ở vùng phía tây bắc tổ quốc...các dân tộc như Dao, Nùng, Tày, Thái, Giáy…đều sử dụng nó....

Về tên gọi theo như người dân địa phương thì Thức uống này còn có tên gọi khác là Bạch trùng thảo, Đông trùng hạ thảo. Xuất xứ của hai cái tên chữ cũng như tên gọi nôm na đều xuất phát từ một loại sâu ngâm rượu. Chít là tên một loại sâu sống trong thân cây chít- cây bông đót, mọc hoang ở các triền núi đá vôi nối tiếp nhau trải dài bất tận ở miền Tây Bắc. Bạch trùng thảo là loại sâu trắng ký sinh trong loài cỏ lau. Đông trùng hạ thảo là loại sâu mùa đông chỉ là ấu trùng ở nụ mầm cây chít, nhưng sang mùa hạ phát triển thành sâu, chờ đợi đến ngày chui ra khỏi thân cây chít để hóa thành bướm, mở đầu cho một vòng đời mới…
Hương vị của rượu sâu chít không có vị tanh và cực kì đậm đà. Điểm đặc biệt của rượu sâu chít là ngâm với rượu San Lùng, hay các loại rượu khác như Mường Khương, Bắc Hà, Mai Hạ… uống nhiều hay ít đều không nhức đầu. Hơn thế nữa, nếu lỡ uống say, khi tỉnh dậy vẫn thấy tinh thần sảng khoái, người khỏe ra sau một giấc ngủ dài.đó là điểm thu hút bất kì vị khách nào khi thưởng thức nó.

CƠM LAM

Có lẽ những ai đã từng đến Tây Bắc thì không thế quên được hương vị của cơm lam, một chút nhẹ nhàng thanh thoát tinh tế khác hẳn cơm lam ở hà nội hay đâu đó. Nguời dân tộc phía bắc từ Tày, Nùng, Mường, Dao, Thái đều làm cơm lam. Ngoài cơm lam, họ còn có cả cá lam, chim lam, rau quả lam... Phải thừa nhận làm đồ ăn lam là một nghệ thuật tinh tế đặc biệt.

CHÉO – MÓN ĂN ĐẬM ĐÀ HƯƠNG VỊ TÂY BẮC:


Hầu như không có bữa ăn nào quan trọng của người Thái lại thiếu được Chéo, giống như một dạng muối vừng với người Kinh.,1 loại gia vị hấp dẫn Quả Mắc Khén sau khi thu về, bắc chảo rang nóng. Tiếp đó, đưa vào giã thành bột mịn. Tuy nhiên để chế ra được hương vị thơm phức, chuyên dùng ăn với xôi nếp nương, còn phải qua nhiều công đoạn khác. Đó là dùng ớt khô bỏ hạt nướng giòn, muối rang, rau mùi tầu xắt nhỏ rang khô, tất cả đều giã thành bột mịn. Sau khi trộn đều hỗ hợp trên thì tạo thành Chéo, một thứ bột mùi thơm hăng hắc nhưng lại dịu như vị ô mai và phảng phất chất núi rừng, thơm cay nồng nàn như hương hồi, quế.
 Và còn rất nhiều món thú vị khác như:

Món cá nướng: Người ta dùng các loại cá bản to như chép, mè, trôi, trắm..., loại to khoảng 1 đến 1.5kg mổ đằng lưng, bỏ ruột, để ráo nước, sau đó xoa một lượt muối rang nổ vào bên trong cá: Mắc khén, ớt tươi nướng, nghiền nát, hành tỏi, rau thơm rau mùi thái nhỏ, tất cả trộn đều nhồi vào bụng cá, để một lúc cho ngấm gia vị, cá cứng; cặp dọc cá, nướng trên than hồng. Cá chín dậy mùi thơm rất riêng, rất độc đáo.
Tục ngữ người Thái có câu: “Pay kin pa, má kin lẩu” (đi ăn cá, về uống rượu); hàm ý bữa cơm tiễn người đi (chia tay) thì cần phải có cá, bữa cơm đón người về (sum họp) thì cần phải có rượu. Xem thế đủ biết những món ăn chế biến từ cá nói chung, món lạp cá nói riêng, có vai trò nhất định trong đời sống giao tiếp của xã hội Thái. Nó mặc nhiên đi vào vốn văn hoá dân gian, cả trong văn hoá ngôn ngữ lẫn văn hoá ẩm thực...

Món gà luộc chấm chéo tắp: (gan gà luộc chín trộn với gia vị, tiêu gừng, muối rang nghiền nát) và bát cáy mọ. Cáy mọ là món thịt gà tra đủ các thứ gia vị, gói lá nướng vùi tro, miếng ăn thơm mềm, béo ngậy mà không ngấy.
Trong văn hóa ẩm thực, người Tây bắc  giản dị, không mâm cao, cỗ đầy, không nem công, chả phượng. Người ta chú ý đến hương vị, cái chất của món ăn mà ít chú ý đến mỹ thuật bày biện, màu sắc của món ăn. Họ xem ăn uống là dịp để thể hiện phong cách ứng xử trong sinh hoạt cộng đồng, không lấy ăn uống làm chính mà lấy sự vui làm trọng. Thông qua việc ăn uống, người Tây Bắc thể hiện phong cách ứng xử trong sinh hoạt cộng đồng. Ăn uống là một cách bày tỏ tình cảm, lấy làm nguồn vui trong cuộc sống.



Trang phc:

Dân tc Thái:

Để tạo ra một bộ y phục Thái, không chỉ là công sức trồng bông, chăn tằm, dệt vải, nhuộm màu, cắt may, thêu, người Thái còn phải giỏi nghề kim hoàn tạo ra các đồ trang sức đeo trên người như vòng cổ, vòng tay, hoa tai, trâm, xà tích, cúc bạc...


Khuyên tai ca dân tc Thái đen

Cũng như nhiều dân tộc khác, trang phục của phụ nữ Thái thể hiện rõ nhất bản sắc văn hóa dân tộc. Một bộ trang phục nữ Thái gồm: áo ngắn (xửa cỏm), áo dài (xửa chái và xửa luổng), váy (xỉn), thắt lưng (xải cỏm), khăn (piêu), nón (cúp), xà cạp (pepăn khạ), các loại hoa tai, vòng cổ, vòng tay, xà tích..
 Xửa cỏm (áo ngắn bó sát người có hàng cúc bướm) có thể may bằng nhiều loại vải với màu sắc khác nhau. Chính hàng khuy bạc hay kim loại đã làm cho xửa cỏm thành chiếc áo đặc trưng của bộ nữ phục Thái. Theo quan niệm dân gian Thái, hai hàng cúc bạc trên hai vạt áo xửa cỏm là tượng trưng cho sự kết hợp nam với nữ, tạo nên sự trường tồn của nòi giống.
Phụ nữ Thái còn mặc hai loại áo dài là xửa chái và xửa luổng. Xửa chái may bằng vải chàm đen, kiểu áo 5 thân, cài cúc phía bên tay trái, cổ đứng, gấu áo phủ quá đầu gối. Theo tục lệ, phụ nữ có chồng mới mặc xửa chải vào dịp cưới xin, hội hè. Xửa luổng là áo khoác ngoài, may dài, rộng, chui đầu, có tay hoặc không có tay. Phụ nữ Thái từ khi còn trẻ đã may loại áo này, một dành cho bản thân khi về già và một dành biếu mẹ chồng khi về làm dâu. Các cụ già mặc áo xửa luổng lộn trái vào ngày thường, chỉ khi chết mới mặc mặt phải.    




Thái Đen: Thường nhật phụ nữ Thái Đen mặc áo ngắn (xửa cóm) màu tối (chàm hoặc đen), cổ áo khác Thái Trắng là loại cổ tròn, đứng. Đầu đội khăn gọi là "piêu" thêu hoa văn nhiều mô-típ trang trí mang phong cách từng mường. Váy là loại giống phụ nữ Thái Trắng đã nói ở trên. Lối để tóc kkhi có chồng búi lên đỉnh đầu gọi là "Tằng cẩu";khi chồng chết có thể búi tóc thấp xuống sau gáy ; chưa chồng không búi tóc. Trong lễ, tết áo dài Thái Đen đa dạng với các loại xẻ nách, chui đầu, trang trí phong phú đa dạng về màu và mô-típ hơn Thái Trắng.


Nói về bộ trang phục nữ Thái không thể thiếu chiếc khăn piêu. Chiếc khăn piêu được các cô gái Thái thêu thùa rất cầu kì, nó thể hiện sự khéo léo của mỗi cô gái. Piêu tết 3 sừng là piêu thường dùng, piêu tết 5 hay 7 sừng là piêu sang, dùng làm quà biếu, đội lúc bản mường có hội hè, cưới xin.  Khăn Piêu là đặc trưng của người dân tộc Thái với đường nét tinh sảo và hoa văn mang đậm chất núi rừng hoang sơ cùng màu sắc sặc sỡ, nó thể hiện tình yêu, sức mạnh nữ tính thật quyến rũ.


chiếc khăn piêu ca người thái

So với nữ thì nam phục Thái đơn giản hơn, ít chứa đựng sắc thái tộc người và cũng biến đổi nhanh hơn. Trang phục nam giới gồm: áo, quần, thắt lưng và các loại khăn.
Áo nam giới có hai loại, áo cánh ngắn và áo dài. Áo ngắn may bằng vải chàm, kiểu xẻ ngực, tay dài hoặc ngắn, cổ tròn. Khuy áo làm bằng đồng hay tết thành nút vải. Áo không có trang trí hoa văn chỉ trong dịp trang trọng người ta mới thấy nam giới Thái mặc tấm áo cánh ngắn mới, lấp ló đôi quả chì (mak may) ở đầu đường xẻ tà hai bên hông áo...


Trang phục Thái phản ánh rõ nét đặc điểm của cư dân nông nghiệp trồng trọt, sự chinh phục, tìm tòi các nguyên liệu trong thiên nhiên để tạo ra trang phục đáp ứng cho nhu cầu cuộc sống. Trang phục vượt qua cả giá trị vật chất thuần túy của nó thể hiện lối sống, quan niệm thẩm mỹ, đạo đức, tư tưởng xã hội, tín ngưỡng... Trang phục là sự phát triển rất cao của trình độ thẩm mỹ dân gian, các hoa văn được tạo hình độc đáo, xử lý màu sắc tinh tế, hài hòa mang đặc trưng tộc người khiến trang phục người Thái ở bất cứ nơi đâu cũng có vẻ đẹp riêng. Nó phản ánh mối quan hệ hài hòa giữa con người và thiên nhiên, đồng bào Thái nơi đây đã đưa vào trang phục của mình những hoa văn là cả một thế giới động, thực vật phong phú. Do xen kẽ của các nhóm Thái khác nhau mà trang phục của họ phần nào cũng thể hiện ảnh hưởng của nhau. Nhưng tất cả họ đều rất tự hào về bản sắc riêng của mình và không ngừng bảo tồn, phát huy, phát triển những giá trị văn hóa truyền thống tộc người. Góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam Tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.

Dân tc Dao:
So với các dân tộc khác thì dân tộc Dao được coi là còn giữ được nhiều nét bản sắc của mình với chất liệu bằng vải bông nhuộm chàm, màu xanh, đỏ, đen, tím than hoặc để trắng. Tộc người Dao đỏ đội khăn đỏ, đeo những bông hoa đỏ trước ngực; Dao quần chẹt mặc quần ống hẹp bó sát vào chân; Dao quần trắng nổi bật là yếm rất to che kín cả ngực và bụng, ngày cưới cô dâu mặc quần trắng; Dao làn tuyển mặc áo dài, đội mũ nhỏ...
Một bộ trang phục hoàn chỉnh của người Dao gồm: Áo, yếm, xà cạp, cùng đồ trang sức vàng bạc, khăn vấn đầu... Duy nhất trong cộng đồng người Dao chỉ có người Dao Tiền là mặc váy (váy của người Dao Tiền phía bắc dài hơn váy của người Dao Tiền phía nam). Áo của người Dao Tiền gồm hai thân trước, nẹp và một xỏ tà. Thường trên đó họ dùng họa tiết hình gấu, chó. Đây cũng là ý niệm xa xưa gián tiếp nhớ về thủy tổ của dân tộc Dao. Ở đó có hình Bàn Vương, con chó ngũ sắc - đã có công giết giặc được vua gả công chúa cho sinh con đẻ cái, trở thành dân tộc Dao ngày nay, áo thường có bộ khuy quý bằng bạc hình tròn chạm khắc tinh vi. Cổ áo của người phụ nữ Dao được trang trí bằng núm bông hoa đỏ như nắm tay nổi bật trên nền áo chàm xanh đằm thắm.


Yếm của người Dao khá đơn giản, chỉ là một vuông lụa trắng đính một miếng vải hình tam giác làm cổ yếm. Xà cạp có hình hoa văn móc câu hay răng cưa hình chim. Để bộ trang phục thêm hoàn mỹ, họ thường dùng nhiều loại khăn vấn đầu (có 3 loại khăn: khăn vuông, khăn chữ nhật và khăn dài). Trong đám hát ví, họ thường dùng khăn thêu trắng dài chừng 1,2m, rộng 30-40cm, hai đầu gồm hai mảng hoa văn hình vuông tạo thành cảm giác mềm mại. Ngoài trang phục chính, người phụ nữ Dao còn ưa dùng đồ trang sức làm cho bộ trang phục của mình thêm sang trọng: Vòng cổ, nhẫn, túi ăn trầu, các đồ trang sức bằng bạc hình bán cầu, hình sao 8 cánh. Có những cô gái Dao đeo 10 chiếc vòng cổ, 12 chiếc nhẫn, cùng những chiếc khuy bạc đường kính 6-7cm, nổi bật trên màu áo chàm.


Vào dịp lễ hội, người phụ nữ Dao còn giữ tục chải đầu bằng sáp ong cho mái tóc nuột nà, uốn lượn. Đây cũng là một bí quyết giúp mái tóc của những cô gái Dao khỏe về sức sống, đẹp trong con mắt mọi người. Trong không khí tưng bừng của ngày Tết, lễ hội, người ta dùng điệu hát lời ca làm cuộc sống thêm thăng hoa. Đáng chú ý là bộ trang phục của cô dâu, phải mất 3 năm cô gái Dao mới hoàn thành bộ trang phục cho mình. Trang phục chú rể kín đáo, ít phô bày, thường được may bằng các loại vải màu sậm phần nào thể hiện nam tính. Riêng trang phục của ông thầy cúng có khác đôi chút, mũ được làm bằng bìa cứng, gồm nhiều bức tranh ghép lại cắt dán theo hình quả núi dài khoảng 25cm. Áo màu đen được thêu hoa văn màu đỏ.

Dân tc H’Mông:
Trang phục của người Hmông rất sặc sỡ, đa dạng giữa các nhóm. Quần áo của người Mông chủ yếu may bằng vải lanh tự dệt. Đậm đà tính cách tộc người trong tạo hình và trang trí với kỹ thuật đa dạng. Trang phục nam Hmông độc đáo khác nhiều tộc người trong khu vực; trang phục nữ khó lẫn lộn với các tộc khác bởi phong cách tạo dáng và trang trí công phu, kết hợp kỹ thuật nhuộm, vẽ sáp ong, thêu, ghéo, dệt hoa văn với kiểu váy rộng và đẹp.    

Trang phục nam:   

Nam thường mặc áo cánh ngắn ngang hoặc dưới thắt lưng, thân hẹp, ống tay hơi rộng. Áo nam có hai loại: năm thân và bốn thân. Loại bốn thân xẻ ngực, hai túi trên, hai túi dưới. Loại năm thân xẻ nách phải dài quá mông. Loại bốn thân thường không trang trí loại năm thân được trang trí những đường vằn ngang trên ống tay. Quần nam giới là loại chân què ống rất rộng so với các tộc trong khu vực. Đầu thường chít khăn, có nhóm đội mũ xung quanh có đính những hình tròn bạc chạm khắc hoa văn, có khi mang vòng bạc cổ, có khi không mang.

Trang phục nữ:
Người H’Mông có nhiều nhóm khác nhau, trang phục nữ các nhóm cũng có sự khác biệt. Tuy nhiên nhìn chung có thể thấy phụ nữ Hmông thường mặc áo bốn thân, xẻ ngực không cài nút, gấu áo không khâu hoặc cho vào trong váy. Ôống tay áo thường trang trí hoa văn những đường vằn ngang từ nách đến cửa tay, đường viền cổ và nẹp hai thân trước được trang trí viền vải khác màu (thường là đỏ và hoa văn trên nền chàm). Phụ nữ Hmông còn dùng loại áo xẻ nách phải trang trí cổ, hai vai xuống ngực giữa và cửa ống tay áo. Phía sau gáy thường được đính miệng và trang trí hoa văn dày đặc bằng chỉ ngũ sắc. Váy phụ nữ Hmông là loại váy kín, nhiều nếp gấp, rộng, khi xòe ra có hình tròn. Váy là một tiêu chuẩn nhiều người đã dựa vào để phân biệt các nhóm Hmông (Hóa, Xanh, Trắng, Đen... ). Đó là các loại váy trắng, váy đen, váy in hoa, vẽ sáp ong kết hợp thêu. Váy được mang trên người với chiếc thắt lưng vải được thêu trang trí ở đoạn giữa. Khi mặc váy thường mang theo tạp dề. Tạp dề mang trước bụng phủ xuống chân là 'giao thoa' giữa miếng vải hình tam giác và chữ nhật; phần trang trí hoa văn là miếng vải hình tam giác cân phía trên, miếng hình chữ nhật là màu chàm đen, kích thước tùy từng bộ phận người Hmông. Phụ nữ thường để tóc dài quấn quanh đầu, có một số nhóm đội khăn quấn thành khối cao trên đầu. Đồ trang sức bao gồm khuyên tai, vòng cổ, vòng tay, vòng chân, nhẫn.
Phụ nữ Hmông Trắng trồng lanh, dệt vải lanh, váy màu trắng, áo xẻ ngực, thêu hoa văn ở cánh tay, yếm sau. Cạo tóc, để chỏm, đội khăn rộng vành.
Phụ nữ Hmông Hoa mặc váy màu chàm có thêu hoặc in hoa văn bằng sáp ong, áo xẻ nách, trên vai và ngực đắp vải màu và thêu. Ðể tóc dài, vấn tóc cùng tóc giả.
Phụ nữ Hmông Ðen mặc váy bằng vải chàm, in hoa văn bằng sáp ong, áo xẻ ngực.
Phụ nữ Hmông Xanh mặc váy ống. Phụ nữ Hmông Xanh đã có chồng cuốn tóc lên đỉnh đầu, cài bằng lược móng ngựa, đội khăn ra ngoài tạo thành hình như hai cái sừng.
Trang trí trên y phục của người H’Mông chủ yếu bằng đắp ghép vải màu, hoa văn thêu chủ yếu hình con ốc, hình vuông, hình quả trám, hình chữ thập.

Kiến trúc:
Nhà sàn Thái:

Mô hình nhà người Thái Trắng (Lai Châu, Việt Nam) - Phòng trưng bày Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam

Nhà sàn của người Thái - “hướn hạn phủ táy” là một công trình kiến trúc tài hoa, hòa đồng với thiên nhiên, đất trời cùng vạn vật. Từ kiến trúc xây dựng đến nghệ thuật trang trí đều bắt nguồn từ thực tế cuộc sống khách quan được cách điệu hóa đạt tới trình độ  thẩm mỹ cao.
Nhà sàn của người Thái bao giờ cũng làm số gian lẻ, hai đầu hồi - “tụp cống” khum khum như mai rùa, gắn với truyền thuyết về thuở khai thiên lập địa, thần rùa “Pua tấu” dạy cho người Thái biết cách làm nhà theo hình rùa đứng.
Người Thái có câu: “Khửn song phái/ cái song đay” - tức là mở hai cửa/ đi hai đường. Nhà người Thái cổ bao giờ cũng có hai cầu thang: “Tang chan” và “Tang quản”. “Tang chan” ở cuối nhà, bên trái dành cho phụ nữ lên xuống. “Chan” là phần sàn nhà được nối dài ra ngoài trời. Đây là nơi các mẹ, các chị, các em... thường ngồi chơi lúc nhàn rỗi, thêu thùa... cầu thang này bao giờ cũng mang số lẻ, thường là 9 bậc, ứng với 9 vía.
Cầu thang dành riêng cho nam giới - “tang quản” ở đầu nhà, thường có 7 bậc ứng với 7 vía.
Nhà sàn của người Thái cổ có hai bếp lửa - “Chík pháy”. Bếp lửa phía “tang quản” dành cho người già, bếp chính ở phía “tang chang” dành cho nữ giới. Giữa núi rừng trùng điệp, bếp lửa hồng trên nhà sàn như trái tim hồng, sưởi ấm và nuôi dưỡng cả về vật chất và tinh thần cho mỗi con người.
Từ bếp dành cho người già đến hết cầu thanh dành cho nam giới gọi là “quản”. Đây là nơi dành riêng cho đàn ông, phụ nữ không được đến khu vực này, trừ một số trường hợp đặc biệt. Nơi đây có gian thờ tổ tiên - “hỏng hóng” và cột thiêng - “sau hẹ”. Trên cột thiêng treo hình thần rùa bằng gỗ, ba bông lúa - “sam huống khẩu” và ba nhánh rau thì là - “sam hóm chík”... Ngoài ý nghĩa có tính biểu tượng của tô tem giáo thì còn mang bóng dáng của thuyết thiên - địa - nhân.
Ngôi nhà sàn của người Thái vừa trang nhã, vừa chắc chắn: “Hướn đi tẳng cang tèn/ Hướn én tẳng cang vên/ Lốm luông pặt bấu chại/ Lốm hại pặt bấu pay” - Nghĩa là: Nhà tốt dựng nơi cao ráo/ Nhà đẹp dựng giữa mường/ Gió to thổi không xiêu/ Bão lớn không lay động.
Nhà sàn được trang trí nhiều hoa văn họa tiết tinh xảo trên bậu cửa sổ, trên các tấm ván hình răng cưa làm chấn song cửa sổ, trên “khau cút” của nhà người Thái đen. “Khau cút” vẽ vân sen/ đầu kèo vẽ vân én/ mái nhà xén bằng dui - “khau cút tẻm lai bua/ sinh dua tẻm lai én/ nhả ca bén tin con”, đã trở thành tiêu chí về vẻ đẹp của ngôi nhà sàn người Thái đen Tây Bắc.
“Khau cút” là hai tấm ván đóng chéo nhau hình chữ X trên đòn nóc - “Tiêu bôn”, trước hết để chắn gió - “pảy lốm” cho mái tranh hai đầu hồi nhà. Những gia đình quý tộc xưa còn làm thêm bông sen cách điệu ở giao điểm hai tấm ván và tám hình trăng khuyết hướng vào nhau so le trên “khau cút”. Giải thích về biểu tượng “khau cút” có nhiều ý kiến khác nhau như: Đó là cặp sừng trâu cách điệu, biểu tượng của một nền văn minh lúa nước, hoặc đó là những búp cây guột - “cút lo ngong” có nhiều ở Tây Bắc, hay gắn với cuộc thiên di tìm miền đất hứa của người Thái, anh em luôn nhớ về nhau... Dù có cách giải thích thế nào, thì khi bắt gặp hình “khau cút” trên nóc nhà sàn, là mỗi người Thái đen Tây Bắc lại thêm ấm lòng, nhớ về anh em, bản mường yêu dấu.
Trên bậu cửa sổ thường chạm hình đôi thuồng luồng - “tô ngựa”, linh vật làm chủ sông, suối, biểu tượng của sức mạnh và gia đình hạnh phúc. Trên các chấn song cửa sổ chạm các hoa văn, họa tiết mô phỏng thiên nhiên theo hình đối xứng hoặc lặp lại. Đó là những hình thoi như quả trám, hoa ban - “bók ban”, búp cây guột - “cút lo ngong”... Nhà sàn người Thái trắng - “Táy khao” thường có lan can xung quanh hoặc trước nhà rất đẹp. Thiên nhiên được phản ánh một cách sống động, thể hiện tinh tế quan điểm về vũ trụ, âm dương ngũ hành và ý nghĩa nhân sinh cao đẹp. Chẳng những mang sắc thái dân tộc đậm nét nhà sàn của người Thái Tây Bắc còn là nơi hội tụ những giá trị vật chất và tinh thần.
Đây là nơi chứng kiến buồn vui của bao thế hệ để rồi mỗi người hiểu thêm về quá khứ, hiện tại và  tương lai, trân trọng nâng niu những tài sản vô giá cả về vật chất và tinh thần đã trở thành truyền thống tốt đẹp và phấn đấu vì một ngày mai tươi sáng hơn.
Quanh bếp lửa hồng, đã bao lần gia đình họ tộc quây quần nghe người già hát, ngâm, kể - “khắp” những điều răn dạy về đạo lý làm người - “Quámk son cốn”, chuyện bản Mường - “Quámk tố mướng”, bước đường chinh chiến của cha ông - “Táy púk sấc”, Tiễn dặn người yêu - “sống chụ xon xao”... cùng nồng say trong các điệu “xòe” ngày mừng cơm mới, lên nhà mới, hội cưới, ngày xuân...
Nhà sàn còn là nơi con trai đan lát, thổi khèn, pí... con gái quay xa, dệt vải, thêu thùa... đã được khái quát trong câu thơ: Trai biết đan chài/ gái biết dệt vải - “nhinh hụ tháp phải/ trái hụ san he”.
Các bản Thái thường quần tụ ven suối chân đồi. Những ngôi nhà sàn bình dị ấm cúng, khói lam thơm thoảng gió đồng, lách cách tiếng thoi đưa, đâu đây da diết một điệu khèn câu khắp, lốc cốc tiếng mõ trâu đàn về bản... tất cả làm nên một vẻ đẹp trong sáng đậm tình như một bức tranh sơn thủy, dân dã nguyên sơ của một nền văn hóa.

Nhà sàn Dao:
Người Dao thường sống ở vùng lưng chừng núi hầu khắp các tỉnh miền núi miền Bắc. Tuy nhiên một số nhóm như Dao Quần trắng ở thung lũng, còn Dao Ðỏ lại ở trên núi cao. Thôn xóm phần nhiều phân tán, rải rác, năm bẩy nóc nhà. Nhà của người Dao rất khác nhau, tuỳ nơi họ ở nhà trệt, nhà sàn hay nhà nửa sàn, nửa đất.

Một kiểu kiến trúc nhà ở của người Dao

Kiến trúc nhà ở của người Dao cũng rất phong phú, tuỳ nhóm mà ở nhà trệt hay nửa sàn, nửa đất. Hiện nay tại Bảo tàng dân tộc học Việt Nam ngôi nhà nửa sàn nửa đất được chọn để trưng bày và giới thiệu. Loại nhà nửa sàn nửa đất là loại kiến trúc nhà cửa của riêng người Dao, gắn liền với cuộc sống du canh du cư trước đây. Điều đặc biệt là toàn bộ ngôi nhà của người Dao đều được làm bằng tranh tre nứa lá, không có một chút gạch ngói. 8 cột cái trong nhà được làm bằng những cây gỗ quí, có tuổi rất già 80-90 năm. Mỗi lần chuyển nhà, họ có thể bỏ phên, tranh tre nứa lá còn những cột cái bằng gỗ quí có sức bền với thời gian thì họ chuyên chở đi để làm ngôi nhà nơi ở mới.
Về cấu trúc, nhà của người Dao được làm bằng gỗ, tre, nứa rất chắc chắn, đơn giản nhưng được kết hợp khéo léo toát lên sự kín đáo, tế nhị của người Á Đông. Kiểu nhà truyền thống của người Dao quần trắng là nhà sàn, thường được làm ba gian, cách chắp nối các cấu kiện bằng nguyên liệu rời. Tuy nhiên, họ không phải dùng đinh trong quá trình lắp ghép nhà ở. Kiểu nhà này chỉ có một cầu thang lên xuống, cầu thang có số bậc lẻ; trong nhà thường có hai bếp. Nhà người Dao đỏ làm nửa sàn nửa đất ở lưng chừng đồi. Cách chọn hướng nhà thì cũng như các dân tộc khác.

Nhà sàn H’ Mông:
Người H'Mông chỉ ở nhà trệt, làm bằng gỗ pơ mu, thường có ba gian không có chái. Bộ khung bằng gỗ, vì kéo kết cầu đơn giản, chủ yếu là ba cột có một xà ngang kép hoặc hai xà ngang, một trên một dưới.. Công việc làm nhà là của đàn ông. Dân bản thường gíup nhau dựng nhà. Họ chỉ dùng búa và dao. Hầu hết các bộ phận được liên kết với nhau bằng dây buộc
Về tổ chức mặt bằng sinh hoạt sinh hoạt: khá thống nhất giữa mọi nhà. Nhà ba gian: gian chính giữa giáp vách hậu bao giờ cũng là nơi đặt bàn thờ tổ tiên. Gian này còn là nơi dành cho ăn uống hằng ngày. Một gian đầu hồi dành cho sinh hoạt của các thành viên nam và khách nam. Ở đây thường có bếp phụ. Còn gian đầu hồi bên kia dành cho sinh hoạt của nữ, đồng thời cũng là nơi đặt bếp chính. Bếp của người Mèo thuộc loại bếp kín - bếp lò - một sản phẩm của phương Bắc. Chuồng gia súc đặt trước mặt nhà. Riêng nhà người Mèo ở Thuận Châu và Mộc Châu, Sơn La lại có đặc trưng riêng. Vẫn là nhà đất nhưng làm theo hình thức nóc của người Thái Đen. Nóc hình mai rùa nhưng không có khau cút. Bộ khung nhà, có người cũng làm theo kiểu Thái. Duy có cách bố trí trong nhà còn giữ lại hình thức cổ truyền của người Mèo. Nhà giàu thì tường trình, cột gỗ kê trên đá tảng hình đèn lồng hay quả bí, mái lợp ngói, sàn gác lát ván. Phổ biến nhà bưng ván hay vách nứa, mái tranh. Lương thực được cất trữ trên sàn gác. Một số nơi có nhà kho chứa lương thực ở ngay cạnh nhà.
Chuồng gia súc được đặt trước mặt nhà.lát ván cao ráo, sạch sẽ.
Ở vùng cao núi đá, mỗi nhà còn có một khuôn viên riêng cách nhau bằng bức tường xếp đá cao khoảng gần 2 mét.





0 comments:

Post a Comment